CÁC CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP: TÁC ĐỘNG VÀ GỢI MỞ ĐỐI VỚI KHOA HỌC ĐỊA LÝ

Bài tham luận của GS.TS Nguyễn Ngọc Trân tại Hội nghị Khoa học Địa lý toàn quốc lần thứ XV 2025.

Bài tham luận của GS.TS Nguyễn Ngọc Trân trình bày một cách tổng quan hệ thống về bốn cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) kéo dài hơn hai thế kỷ rưỡi, từ cơ giới hóa, điện khí hóa, số hóa đến điều khiển học. Mỗi cuộc CMCN được phân tích qua bốn thành tố: động lựctiền đềnăm đánh dấu, và đặc trưng công nghệ – xã hội. Trên cơ sở này, tác giả làm rõ tác động đa chiều của các CMCN lên kinh tế, xã hội, môi trường và đặc biệt là lên sự phát triển của khoa học Địa lý.

Một điểm nổi bật trong bài viết là cách tiếp cận lịch sử – công nghệ để phân tích tiến trình chuyển biến của địa lý học. Nếu ở giai đoạn của CMCN 1–2, Địa lý chủ yếu dựa trên khảo sát thực địa, mô tả cảnh quan và ghi nhận hiện tượng, thì từ CMCN 3, các công nghệ bản đồ số, viễn thám, GIS và mô hình không gian–thời gian đã mở rộng phương pháp nghiên cứu theo hướng định lượng, mô phỏng và dự báo. Đến CMCN 4, với IoT, dữ liệu lớn, điện toán đám mây và AI, Địa lý học bước vào giai đoạn giám sát thời gian thực và hỗ trợ quyết định dựa trên dữ liệu số đa tầng, đa nguồn. Những chuyên ngành mới như địa lý đô thị thông minh, địa lý kinh tế số hay địa lý không gian người–máy ra đời chính từ bối cảnh này. Song song với các cơ hội, tác giả cũng nhấn mạnh các thách thức như khoảng cách số, quyền riêng tư dữ liệu địa lý và trách nhiệm giải trình trong sử dụng AI—những vấn đề mà khoa học Địa lý buộc phải quan tâm khi mở rộng ứng dụng công nghệ.

Bảng tổng hợp bốn cuộc Cách mạng công nghiệp và các tác động của chúng lên kinh tế, xã hội, môi trường, giáo dục đào tạo, và đặc biệt là khoa học Địa lý.

Bảng Tổng hợp trên chính là điểm nhấn quan trọng của bài báo. Theo tác giả, đây không phải là phép tổng hợp cơ học từ các bảng trước, mà là cách trình bày có chủ đích nhằm thể hiện diễn biến của từng đề mục theo thời gian (đọc theo dòng) và tác động của từng cuộc CMCN lên toàn bộ đề mục (đọc theo cột). Kết hợp hai chiều cho phép người đọc hình dung rõ quy luật chuyển dịch của công nghệ và ảnh hưởng của chúng lên kinh tế, xã hội, môi trường và Địa lý học.

Trong Bảng Tổng hợp, các đề mục được hệ thống hóa thành chuỗi logic:

  • Động lực phát triển chuyển từ giới hạn lao động cơ bắp sang nhu cầu sản xuất hàng loạt, rồi đến điện tử – vi điện tử và cuối cùng là số hóa toàn diện.
  • Tiền đề công nghệ bắt đầu với máy hơi nước, năng lượng điện, máy tính – Internet, và tiến tới IoT – AI – Blockchain.
  • Đặc trưng kinh tế – xã hội chuyển từ cơ giới hóa, giao thông – thương mại hàng loạt, ICT và đô thị hóa nhanh, đến môi trường “cyber–physical” với tương tác người–máy và cá nhân hóa dịch vụ.
  • Tác động lên khoa học Địa lý mở rộng từ khảo sát địa hình, quan trắc khí tượng điện khí hóa, viễn thám và bản đồ số cho đến bản đồ thời gian thực, phân tích – dự báo bằng AI và giám sát biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững.

Cách trình bày này giúp người đọc nắm bắt tiến trình phát triển liên tục và phi tuyến của khoa học Địa lý dưới tác động của đổi mới công nghệ, đồng thời chỉ ra các mối liên hệ nhân quả giữa công nghệ – xã hội – môi trường.

Như tác giả đã viết, “Từ thực tế công tác đã trải nghiệm, chúng tôi cho rằng các thuận lợi mà CMCN mang lại sẽ được phát huy khi chúng ta nắm vững ba quan điểm: hệ thống và độngphân tích sâu, tổng hợp caotiếp cận liên ngành và xuyên ngành“.

Để đọc chi tiết bài báo, xin quý độc giả và các nhà khoa học vui lòng đọc theo link.

Phương Chi (tổng hợp)

Kỷ niệm “Cổng Thông tin Địa Môi trường – 10 năm một hành trình”

Ngày 19/10 vừa qua, tại Nhà hàng 241, chương trình kỷ niệm “Cổng Thông tin Địa Môi trường – 10 năm một hành trình” đã diễn ra trong không khí ấm cúng và trang trọng, với sự tham dự của Ban Chủ nhiệm Khoa, các Trưởng Bộ môn, cùng các thầy cô, cộng tác viên và những người đã đồng hành cùng trang trong suốt thời gian qua.

Mở đầu chương trình, PGS.TS. Vũ Văn Nghị – Trưởng Bộ môn Khoa học Môi trường đã phát biểu chào mừng, gửi lời tri ân đến các thầy cô, cán bộ và sinh viên đã chung tay xây dựng, đóng góp cho sự phát triển của trang trong suốt chặng đường 10 năm. Thầy khẳng định, Địa Môi trường không chỉ là nơi chia sẻ thông tin chuyên môn mà còn là cầu nối tri thức – nơi lan tỏa tình yêu với địa chất và môi trường đến cộng đồng.

Tiếp nối chương trình, TS. Hoàng Thị Phương Chi đã trình bày phần tổng kết hành trình 10 năm của Cổng Thông tin Địa Môi Trường. Cô chia sẻ về những dấu mốc đáng nhớ, những con số ấn tượng, những đóng góp của đội ngũ giảng viên, sinh viên. Mười năm qua, trang blog đã không ngừng mở rộng nội dung, trở thành nguồn tư liệu quý cho học tập, nghiên cứu và truyền thông về các chủ đề địa chất môi trường và địa du lịch.

Trong phần phát biểu, PGS.TS. Hà Quang Hải – người được xem như “người gieo hạt” để Cổng Thông tin Địa Môi trường hình thành và lớn mạnh – đã chia sẻ câu chuyện ra đời của trang như một nỗ lực kết nối những tâm hồn cùng chung niềm đam mê với địa chất và môi trường.

Theo thầy, Địa Môi trường hướng đến một cộng đồng rộng mở: sinh viên, giảng viên, nhà khoa học, nhà quản lý và những người yêu thiên nhiên, thích khám phá các giá trị địa chất. Nguồn bài viết trên trang cũng vì thế mà đa dạng – từ các công trình nghiên cứu khoa học, bài học thực địa, trải nghiệm giảng dạy – học tập, cho đến những chia sẻ sinh động từ cộng đồng yêu địa môi trường.

Thầy bày tỏ kỳ vọng trong thời gian tới, Cổng Thông tin sẽ mở rộng hơn nữa phạm vi nội dung, không chỉ tập trung vào địa chất môi trường hay địa du lịch, mà còn bước sang những lĩnh vực liên ngành, phản ánh đúng tinh thần kết nối của khoa học Trái Đất hiện đại. Thầy nhấn mạnh, yếu tố “Geo-” trong “Địa Môi trường” cần được hiểu theo nghĩa “địa quyển” – bao trùm cả các hợp phần thủy văn, sinh thái, hóa học, vật lý và sức khỏe… thể hiện mối liên hệ tổng thể giữa con người và Trái Đất.

Nhằm ghi nhận những đóng góp to lớn trong hành trình phát triển, Ban Tổ chức đã trao quà tri ân đến thầy Hà Quang Hải cùng thầy Nguyễn Trường Ngân và các thầy cô đã đồng hành, đóng góp nội dung, hình ảnh và tinh thần cho Địa Môi trường trong suốt thời gian qua.

Buổi gặp mặt kết thúc trong không khí thân mật với bữa tiệc giao lưu, nơi các thầy cô cùng chia sẻ những kỷ niệm, câu chuyện gắn bó với Cổng Thông tin Địa Môi trường – một hành trình mười năm đầy tâm huyết, đam mê và tri ân.

Một vài hình ảnh kỷ niệm.

Quang Trà – Phương Chi

Trái đất số  (Digital Earth) – Từ giấc mơ công nghệ đến nền tảng quản lý tài nguyên toàn cầu

Bài viết kỷ niệm 10 năm Cổng thông tin Địa Môi Trường – Nhìn lại hành trình chuyển đổi số trong khoa học Trái đất và Quản lý tài nguyên Việt Nam.

Nguyễn Trường Ngân, Quách Đồng Thắng – Trường ĐH Bách Khoa TP.HCM

“Tôi tin rằng chúng ta cần một “Trái đất số” –  một mô hình trái đất ba chiều, đa độ phân giải, trong đó có thể tích hợp một lượng khổng lồ các dữ liệu được gắn tham chiếu không gian.”

Al Gore (1998), The Digital Earth: Understanding Our Planet in the 21st Century

Lời kêu gọi ấy của Al Gore vang lên như một giấc mơ công nghệ xa vời – một tầm nhìn về việc con người có thể “nắm bắt và hiểu biết hành tinh của mình trong không gian số”. Hôm nay, giấc mơ đó đã và đang dần trở thành hiện thực. Trái đất số không còn chỉ là hình ảnh 3D lung linh trong các bản trình diễn công nghệ, mà đã trở thành nền tảng dữ liệu cốt lõi để các quốc gia quản lý tài nguyên, giám sát môi trường, dự báo biến đổi khí hậu, và ra quyết định phát triển bền vững.

Từ những bản đồ vệ tinh chi tiết đến các mô hình số hóa toàn cầu như Google Earth Engine, Digital Twin Earth của ESA, hay China’s Digital Earth Platform, nhân loại đang từng bước dựng nên “phiên bản số” của hành tinh – nơi mọi dữ liệu về vị trí, trữ lượng, chất lượng và giá trị tài nguyên được kết nối trong một không gian thống nhất.

Khi kỷ nguyên dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo mở ra, việc hiểu Trái đất không còn dừng lại ở quan sát, mà đã tiến đến mô hình hóa, dự báo, và tối ưu hóa sự tồn tại của chính chúng ta trên hành tinh này. Trong bối cảnh ấy, bài viết này sẽ cùng nhìn lại hành trình từ hệ thống phân loại tài nguyên đến các mô hình Trái đất số hiện nay – để cùng đặt câu hỏi: Việt Nam sẽ đi tiếp con đường ấy như thế nào trong thập niên tới?

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, áp lực sử dụng tài nguyên và ô nhiễm gia tăng, việc chuyển từ cách quản lý tài nguyên truyền thống sang một nền tảng “Trái đất số” (Digital Earth) là một bước đột phá cần thiết. Bài viết này lần lượt đi qua: (1) hệ thống phân loại tài nguyên môi trường và nhu cầu tích hợp quản lý theo không gian; (2) thực trạng cách quản lý dữ liệu không gian hiện nay và hạn chế; (3) ý tưởng Trái đất số; (4) những thành tựu hiện thực hóa Trái đất số; và (5) gợi ý áp dụng cho Việt Nam.

Hình 1. Hai Trái đất – Hai cách quản lý (tạo bởi Nano Banana AI)

1. Hệ thống phân loại tài nguyên môi trường và yêu cầu tích hợp quản lý theo không gian

Bảng 1. Các dữ liệu tài nguyên môi trường cần tích hợp trong một đơn vị không gian (Nguồn: Tổng hợp từ NASA & GEO).

STTNhóm dữ liệuCác thành phần/ lớp thông tin phổ biếnVai trò/ ứng dụng chính
1Đất/ địa hình/ lớp phủ đấtBề mặt địa hình (DEM/ DTM), độ dốc/ hướng, lớp phủ thực vật, chỉ số thực vật (NDVI, EVI)Xác định cấu trúc địa hình, phân vùng sử dụng đất, dự báo xói mòn, quản lý đất đai
2Nước (nước mặt, nước ngầm, độ ẩm đất)Độ ẩm đất, nước mặt, dòng chảy, nước ngầm, hạn hán/ khô hạn, chất lượng nước.Quản lý nguồn nước, dự báo hạn hán/ lũ lụt, giám sát tài nguyên thủy
3Khí hậu/ khí quyển/ thời tiếtNhiệt độ bề mặt, bức xạ mặt trời, lượng mưa, độ ẩm không khí, gió, hơi nước, mây, chất lượng không khí (ozone, bụi, CO₂…)Mô hình khí hậu, dự báo thời tiết, đánh giá rủi ro thiên tai, hỗ trợ mô phỏng biến đổi khí hậu
4Khoáng sản/ địa chấtPhân bố khoáng sản, cấu trúc địa chất (đứt gãy, lớp đất đá), địa tầng, thành phần khoángXác định vùng tiềm năng khai thác, quản lý khoáng sản bền vững, tra cứu vùng cấp phép
5Chất lượng môi trườngChất ô nhiễm không khí, nồng độ khí nhà kính, chất lượng nước, nhiệt đô đô thị, ô nhiễm bề mặtGiám sát ô nhiễm, đánh giá tác động môi trường, cảnh báo vùng ô nhiễm cao, hỗ trợ quản lý môi trường
6Dân cư/ đô thị/ sử dụng đất/ kết cấu hạ tầngMật độ dân cư, mạng lưới đường giao thông, xây dựng và kiến trúc, chỉ số ánh sáng đêm, đô thị hóa, sử dụng đất đô thị/ nông thônPhân tích áp lực con người lên môi trường, quy hoạch đô thị, đánh giá phúc lợi, mô hình phát triển đô thị
7Biến động không gian – thời gianCác lớp dữ liệu theo chuỗi thời gian: biến động lớp phủ đất, thay đổi độ ẩm, tiến trình đô thị hóa, biến động trữ lượng khoáng sản, biến đổi khí hậuTheo dõi xu hướng, phân tích tốc độ biến đổi, dự báo kịch bản, phát hiện bất thường
8Siêu dữ liệu (Metadata)Cơ sở toán học, độ phân giải (không gian, thời gian, phổ), chất lượng dữ liệu, nguồn gốc dữ liệu.Đảm bảo tính liên thông dữ liệu, truy vết nguồn, tra cứu dữ liệu phù hợp

Mỗi loại tài nguyên có đặc trưng không gian và mối liên hệ sinh thái – ví dụ: đất gắn với thảm phủ, nước gắn với địa hình và khí hậu, sinh vật gắn với hệ sinh thái.

Thực tế, tài nguyên không tồn tại tách biệt mà liên kết trong không gian – một thay đổi ở đất có thể ảnh hưởng đến nước, rừng, khí hậu.

Yêu cầu mới đặt ra là quản lý tài nguyên theo cách tích hợp không gian (spatial integration), không chỉ theo ngành hay loại hình. Triết lý: “Mỗi pixel trên bản đồ là một phần của Trái đất sống”.

2. Thực trạng quản lý dữ liệu không gian của các quốc gia hiện nay

Bảng 2. Tổng hợp các cách quản lý tài nguyên theo không gian hiện nay

Cách quản lý không gianMô tảVí dụ thực tiễnHạn chế nổi bật
Theo tọa độ/ pixelDữ liệu dạng ảnh vệ tinh, mỗi pixel có tọa độ và thuộc tínhNLCD (Mỹ) – bản đồ phủ đất dạng raster; Copernicus Sentinel cung cấp ảnh toàn châu ÂuKhó liên kết trực tiếp với quyền sử dụng đất, hành chính
Theo đơn vị hành chínhTổng hợp dữ liệu theo ranh giới tỉnh, huyện, xãBáo cáo môi trường quốc gia, dữ liệu đất đai quốc gia, hệ thống dữ liệu địa chính quốc gia sử dụng LADMRanh giới hành chính không tương thích ranh giới tự nhiên, dễ tạo ra phân mảnh quản lý
Theo lưu vực/ vùng tự nhiênQuản lý theo ranh giới tự nhiên như lưu vực, vùng sinh tháiHệ phân cấp lưu vực (HUC, Mỹ) dùng trong quản lý nước; quản lý lưu vực sông MekongPháp lý/ đơn vị hành chính khó bám theo, cần phối hợp đa địa phương
Theo chủ sở hữu/ quyền khai thácDữ liệu phân theo người/cơ quan sở hữu, hợp đồng khai thácBáo cáo trữ lượng khoáng sản theo CRIRSCO/UNFC; dữ liệu cấp phép mỏ, giấy chứng nhận đấtDữ liệu phân mảnh, trùng lắp giữa các cơ quan, thiếu liên kết giữa loại tài nguyên

Các hạn chế chính từ cách quản lý hiện nay:

– Dữ liệu rời rạc, khó tích hợp, khó theo dõi biến động liên ngành.

– Chưa có chuẩn không gian thống nhất để mô tả vị trí, quy mô, trữ lượng, giá trị tài nguyên.

– Nhiều nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) vẫn quản lý theo bản đồ tĩnh, thiếu cơ chế cập nhật thời gian thực.

Nhu cầu cấp bách: một nền tảng quản trị Trái đất toàn vẹn, nơi mọi dữ liệu tài nguyên đều “nói cùng một ngôn ngữ không gian”.

3. Ý tưởng Trái đất số và Phương pháp quản lý tài nguyên theo mô hình Trái đất số

Khái niệm Trái đất số – Digital Earth lần đầu tiên được cựu Phó Tổng thống Hoa Kỳ Al Gore đề xuất trong quyển sách “Earth in the Balance” (Gore, 1992) và được phát triển thêm trong bài phát biểu về tầm nhìn Trái đất số của ông tại California Science Center vào năm 1998. Theo đó, Trái đất số được mô tả là một mô hình trực quan 03 chiều của trái đất ở nhiều độ phân giải, kết nối và tích hợp một lượng lớn dữ liệu không gian – thời gian. Trái đất số đóng vai trò như một môi trường cộng tác phi biên giới để chia sẻ, khai thác dữ liệu từ nhiều nguồn, nhiều tổ chức khác nhau (Gore, 1998). Trong bài phát biểu này, ông đã chỉ ra một số nền tảng và yếu tố công nghệ cho phát triển tầm nhìn Trái đất số, bao gồm khoa học máy tính, lưu trữ dữ liệu lớn, ảnh viễn thám, mạng băng thông rộng, khả năng đồng vận hành (interoperability) và lý lịch dữ liệu (metadata). Các viễn cảnh và kịch bản ứng dụng Digital Earth cũng được phác thảo trong các lĩnh vực như ngoại giao ảo (virtual diplomacy), phòng chống tội phạm, bảo tồn đa dạng sinh học, hỗ trợ ra quyết định trong ứng phó thảm họa, ứng phó biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất nông nghiệp, quy hoạch sử dụng đất, quản trị rủi ro, phát triển bền vững, giáo dục (khám phá lịch sử, địa lý thế giới thông qua tương tác với mô hình Trái đất số).

Về mặt kỹ thuật, có 02 cách tiếp cận để mô hình hóa trái đất, làm cơ sở cho hiện thực hóa tầm nhìn Trái đất số: DGGS (Discrete Global Grid System – Hệ thống lưới rời rạc toàn cầu) và Datacubes (Huadong Guo, 2020).

(1) Datacubes là các mảng n chiều hỗ trợ lưu trữ dữ liệu không gian, được sắp xếp theo các chiều tọa độ/ thuộc tính (khối dữ liệu không gian – thời gian). Ví dụ, Open Data Cube (ODC) dùng phổ biến trong các nền tảng Digital Earth để truy vấn xuyên thời gian.

(2) DGGS: bề mặt trái đất được rời rạc hóa tuần tự thành các ô lưới với độ phân giải từ thấp đến cao. Các ô lưới được gán và truy xuất dữ liệu thông qua một cấu trúc dữ liệu và cơ chế đánh chỉ mục. Có nhiều cách phân chia ô lưới như H3, rHEALPix… (Hình 2)

Những lợi ích rõ rệt từ mô hình Trái đất số

– Kết nối các loại tài nguyên trong một hệ thống không gian chung (ví dụ một ô DGGS/ cell H3 có thể mang giá trị đất, lớp phủ cây, độ ẩm, trữ lượng khoáng sản, đặc điểm địa chất) (hình 3).

– Theo dõi biến đổi theo thời gian thực/gần thời gian thực.

– Mã hoá không gian (cell ID, geohash, quadkey): mỗi ô/ cell được gán mã duy nhất trên phạm vi toàn cầu, giúp việc truy vấn, kết nối dữ liệu được nhanh chóng và chính xác.

– Chuẩn hóa metadata/ dịch vụ OGC DGGS giúp truy cập và tích hợp dữ liệu từ nhiều nguồn ở các quy mô không gian khác nhau một cách dễ dàng.

– Mô phỏng và dự báo tác động giữa các tài nguyên (nước, đất, khí hậu, sinh thái) – hỗ trợ quyết định định hướng bền vững.

– Tạo nền tảng chia sẻ và cập nhật dữ liệu mở giữa các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, doanh nghiệp và cộng đồng.

Hình 2. Một số kiểu phân chia ô lưới cho Trái đất số (nguồn: Pangeo Data, 2021).
Hình 3. Mỗi cell của Trái đất số tích hợp đầy đủ thông tin về Tài nguyên môi trường cần quản lý (hình tạo bởi Nano Banana AI)

4. Những thành tựu hiện thực hóa Trái đất số

Digital Earth Australia (DEA): nền tảng quốc gia Australia, tích hợp hơn 30 năm dữ liệu vệ tinh, dùng Open Data Cube để cung cấp sản phẩm “analysis-ready” (phủ đất, nước, cháy rừng, cảnh báo nóng điểm – hotspots). https://hotspots.dea.ga.gov.au/

Destination Earth (DestinE, EU): dự án Digital Twin Trái Đất cấp châu Âu, mới triển khai từ năm 2021, với hai “digital twins” ưu tiên: Weather-Induced Extremes và Climate Adaptation. https://destine.ecmwf.int/

GEOSS/ GEO: mạng lưới tích hợp các nền tảng/dịch vụ quan sát Trái Đất để hỗ trợ mục tiêu liên ngành (nước, khí hậu, đất, sinh thái). https://earthobservations.org/

NASA EOSDIS/ Earthdata: hệ quản lý dữ liệu vệ tinh lớn cung cấp dữ liệu nền cho các mô hình, phân tích digital-earth trên quy mô toàn cầu. https://www.earthdata.nasa.gov/

CASEarth/ Big Earth Data (Trung Quốc CAS): các chương trình phát triển hạ tầng dữ liệu Trái Đất lớn, nhằm nhập dữ liệu vệ tinh, quan trắc trong nước và quốc tế, phát triển các nền tảng chia sẻ dữ liệu lớn. https://www.cbas.ac.cn/

Từ 5 thành tựu tiêu biểu kể trên, ta thấy rằng mô hình Trái đất số đã được xây dựng và ứng dụng trong nhiều quy mô – quốc gia (DEA), châu Âu (DestinE), toàn cầu (GEOSS, NASA) – và đã tích hợp các loại tài nguyên: đất/vegetation, nước, cháy rừng / “hotspots”, mô hình khí hậu, năng lượng, rủi ro thiên tai.

5. Một vài ý tưởng triển khai Trái đất số tại Việt Nam

Việt Nam đang trong giai đoạn bước đầu xây dựng dữ liệu tài nguyên môi trường số hóa, nhưng còn khá nhiều khoảng trống để hướng tới mô hình Trái đất số. Một số ý tưởng bao gồm:

(i) Xây dựng hạ tầng dữ liệu không gian quốc gia (NSDI / Spatial Data Infrastructure): chuẩn hóa metadata, dịch vụ OGC, catalog dữ liệu, dịch vụ truy vấn – để các bộ/địa phương có thể chia sẻ, truy cập đồng bộ.

(ii) Chọn lựa và áp dụng kỹ thuật chia ô không gian để mọi dữ liệu tài nguyên (đất, rừng, nước, khoáng sản) có thể gắn chung mã cell, dễ tích hợp. Ví dụ: một ô H3 có thể chứa thông tin về độ phủ rừng, độ ẩm đất, trữ lượng khoáng, mức ô nhiễm nước.

(iii) Triển khai nền tảng “Trái đất số Việt Nam”: mô hình thử nghiệm nhỏ ở vùng pilot (một tỉnh, lưu vực sông), tích hợp nhiều nguồn dữ liệu, hỗ trợ mô phỏng, dự báo, cảnh báo.

(iv) Mở dữ liệu/ chính sách dữ liệu mở: để các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và cộng đồng cùng khai thác, đóng góp dữ liệu quan trắc, đo đạc từ UAV/ cảm biến nhỏ/ dữ liệu cộng đồng.

(v) Nâng cao năng lực con người: đào tạo chuyên sâu GIS, viễn thám, Big Earth Data, AI, môi trường, để có đội ngũ vận hành, phân tích, phát triển ứng dụng.

(vi) Lồng mô hình dự báo/ mô phỏng đa tài nguyên: từ mô hình đất-nước-sinh thái-khí hậu để dự đoán tác động xuyên ngành, hỗ trợ quyết định quản lý bền vững.

Thay lời kết

Quản lý tài nguyên môi trường trong kỷ nguyên số không còn dừng lại ở việc thu thập và lưu trữ dữ liệu, mà đã chuyển sang giai đoạn tích hợp – phân tích – ra quyết định dựa trên không gian số. Thực tế cho thấy, các hệ thống quản lý hiện nay vẫn còn phân tán, rời rạc giữa các lĩnh vực đất, nước, rừng, khoáng sản, khí hậu và dân cư, khiến hiệu quả tổng hợp thông tin còn hạn chế. Trong bối cảnh đó, ý tưởng “Trái đất số” (Digital Earth) xuất hiện như một mô hình lý tưởng, hướng đến việc xây dựng một nền tảng không gian thống nhất, nơi mọi loại dữ liệu tài nguyên đều có thể được gắn kết, đồng bộ và truy xuất theo từng đơn vị không gian cụ thể.

Hơn hai thập kỷ qua, nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đã có những bước tiến mạnh mẽ: Trung Quốc với chương trình China Digital Earth, Hoa Kỳ với NASA WorldWind và Google Earth Engine, châu Âu với Copernicus Digital Twin Earth, hay Úc với hệ thống Digital Earth Australia. Những thành tựu này không chỉ minh chứng cho khả năng ứng dụng công nghệ địa không gian, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn vào quản lý tài nguyên, mà còn định hình một phương thức quản trị hành tinh dựa trên minh chứng khoa học và thời gian thực.

Tại Việt Nam, tiến trình chuyển đổi số trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường đã bắt đầu rõ nét thông qua các chương trình quốc gia về chuyển đổi số ngành TN&MT, xây dựng cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia, và bản đồ số tài nguyên môi trường thống nhất. Đây là những bước đi quan trọng, đặt nền móng cho việc hình thành một hệ sinh thái quản lý tài nguyên số tích hợp, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Trong tiến trình đó, vai trò của đội ngũ chuyên gia khoa học và nhà quản lý tài nguyên môi trường trở nên đặc biệt quan trọng – họ không chỉ là người xây dựng dữ liệu, mà còn là người kiến tạo tri thức từ dữ liệu. Chính họ sẽ là cầu nối giữa công nghệ và chính sách, giữa dữ liệu và hành động, để “Trái đất số” không chỉ là một giấc mơ công nghệ, mà trở thành nền tảng cốt lõi cho quản trị tài nguyên và bảo vệ môi trường trong tương lai gần./.

KỶ NIỆM 10 NĂM CỔNG THÔNG TIN ĐỊA MÔI TRƯỜNG – NƠI LAN TỎA TRI THỨC, GẮN KẾT CỘNG ĐỒNG

Mười năm – một hành trình không quá dài nhưng đủ để Cổng Thông tin Địa Môi trường (trang blog thuộc Bộ môn Khoa học Môi trường, Khoa Môi trường) trở thành địa chỉ quen thuộc của những ai quan tâm đến môi trường nói chung và địa môi trường nói riêng.

Trong suốt chặng đường đó, Địa Môi trường đã không ngừng mở rộng nội dung, vừa mang tính học thuật, nghiên cứu, vừa gần gũi, truyền cảm hứng. Đây là nơi cộng đồng cùng trao đổi, tìm hiểu, học tập và giải trí xoay quanh hai chủ đề lớn:

  • Địa chất môi trường: các quá trình tự nhiên (động đất, núi lửa, lũ lụt, sạt lở, xói lở bờ sông/bờ biển…) và tác động của con người (xói mòn đất, sụt lún do khai thác nước ngầm, ô nhiễm nguồn nước…) đối với môi trường địa chất.
  • Địa du lịch: các di sản địa chất như đá, hóa thạch, địa tầng, địa mạo, cảnh quan có giá trị khoa học, thẩm mỹ, văn hóa – tâm linh, góp phần khám phá lịch sử Trái đất và quảng bá vẻ đẹp thiên nhiên.

Nhân dịp kỷ niệm 10 năm ra đời và phát triển, Ban Biên tập trân trọng kính mời Quý Thầy Cô, các nhà nghiên cứu, các bạn học viên, sinh viên và quý độc giả cùng chung tay đóng góp bài viết, hình ảnh, hoặc chia sẻ cảm nhận liên quan đến:

  • Các hiện tượng và sự kiện địa chất, môi trường tại địa phương;
  • Kết quả nghiên cứu khoa học, trải nghiệm học tập, hoạt động ngoại khóa về địa môi trường;
  • Góc nhìn, ý tưởng nhằm lan tỏa tri thức và xây dựng cộng đồng khoa học vững mạnh;
  • Cảm nhận về Cổng thông tin Địa môi trường, về quá trình hình thành, phát triển.

Bài viết (kèm theo hình ảnh, video clip nếu có) xin gửi về địa chỉ: htpchi@hcmus.edu.vn (Phương Chi)

Mỗi bài viết là một viên gạch quý giá, góp phần tạo nên diện mạo phong phú cho “ngôi nhà chung” Địa Môi trường cũng như đánh dấu một kỷ niệm 10 năm đáng nhớ.

Trân trọng./.

CÔNG VIÊN ĐỊA CHẤT TOÀN CẦU ĐẢO BOHOL, PHILIPPINES NƠI ĐỘNG ĐẤT TẠO NÊN ĐỊA DI SẢN

Tháng 7 năm 2025, Khóa học về Tai biến Tự nhiên khu vực Tây Thái Bình Dương (Natural Hazards in the Western Pacific Islands) đã được tổ chức tại đảo Bohol – Philippines, cũng là công viên địa chất toàn cầu đầu tiên của Philippines. 

  1. Giới thiệu công viên địa chất toàn cầu đảo Bohol – Philippines 

Bohol là hòn đảo có diện tích lớn thứ mười, là một phần của nhóm đảo Visayas, miền Trung Philippines. Năm 2023, Bohol được công nhận là công viên địa chất toàn cầu UNESCO đầu tiên tại Philippines với lịch sử kiến tạo hơn 150 triệu năm đã nâng hòn đảo này cao khỏi mực nước biển. 

Để đến Bohol từ Việt Nam, du khách có thể bay hai chặng, quá cảnh tại Manila rồi tiếp tục đến Tagbilaran (Bohol), hoặc bay thẳng tới Cebu và sau đó đi phà qua Bohol.

Công viên địa chất Bohol nổi tiếng nhất với đồi Chocolate (Chocolate Hills) và khỉ Tarsier, được chọn là hai hình ảnh cho logo công viên. 


Hình 1. Logo công viên địa chất toàn cầu Đảo Bohol và một số sản phẩm địa du lịch có logo của công viên

2. Các geosite từ trận động đất 2013 

“8 giờ 12 phút sáng ngày 15 tháng 10 năm 2013, một trận động đất 7.2 độ richter (M7.2) đã làm rung chuyển cả đảo Bohol, và cả hai hòn đảo bên cạnh là Negros và Cebu. Những ngôi nhà, những tòa cao ốc, những di sản nhà thờ hơn thế kỷ, đường xá, cầu cống đều bị tàn phá. Hơn 200 người thiệt mạng và ước tính thiệt hại cơ sở hạ tầng là khoảng 2 tỷ peso” 

Bên cạnh những thiệt hại nặng nề về người và của, các dấu vết của những trận động đất để lại trên mặt đất, bắt đầu được quan tâm và chú ý nhiều hơn thông qua các geosite tại công viên địa chất Bohol.

Hình 2. Một số trận động đất lớn đã được ghi nhận ở Bohol từ năm 1922 (Nguồn: DOST-PHIVOLCS) 

Sau trận động đất M7.2 2013, một đứt gãy nghịch Bắc Bohol (NBF-North Bohol Fault) (Hình 2)  được hình thành, tạo nên những dạng địa hình mới: 
Geosite vị trí đứt gãy Inabanga là điểm tiếp cận của cánh treo NBF. Đứt gãy kéo dài khoảng 5km trên mặt đất, làm một phần của cánh đồng lúa được nâng lên, tạo nên bức tường tự nhiên cao từ 0.5 – 2m, còn gọi là bức tường Bohol (the Great Wall of Bohol) (Hình 3). 
Geosite Thềm biển Loon-Maribojoc được nâng lên 1,5m theo chiều thẳng đứng và đường bờ biển bị dịch ra xa 50m. 137ha của thềm biển này được công nhận là di sản địa chất (Geological Monument) bởi Bộ Môi trường và Tài nguyên Philippines (DENR) tháng 8/2015. Một vài năm sau sự kiện động đất đó, tại thềm biển cằn cỗi mọc lên loại cây màu đỏ cam bí ẩn, bò khắp mặt đất, trong giống như loài cây mọng nước. Chính vì vậy, người dân địa phương còn gọi nơi đây là Cánh đồng san hô (Coral Garden).  
Hai dạng địa mạo mới này là hai trong số những geosites nổi bật được tạo ra từ trận động đất M7.2 năm. 

Hình 3. Geosite vị trí đứt gãy tại Inabanga
Hình 4a. Geosite Thềm biển Loon – Maribojoc được nâng lên 1.5m sau trận động đất 2013 
Hình 4b. Thềm biển Loon – Maribojoc nhìn từ trên cao

3. Các geosites tiêu biểu khác

Đồi Chocolate

Nằm tại các thị trấn Carmen, Batuan and Sagbayan của Bohol, đồi Chocolate gồm 1776 nón karst cao từ 100m đến 500m so với mực nước biển. Đây là một trong những dạng địa mạo karst điển hình ở vùng nhiệt đới. Giống như núi Đôi Cô Tiên ở Hà Giang, những ngọn đồi hình nón ở đây gần như đối xứng và có kích thước bằng nhau. Chúng là kết quả từ sự nâng lên của các trầm tích san hô cách đây 2 triệu năm và tác động của nước mưa và xói mòn. Vào mùa khô, khi lượng mưa không đủ, những ngọn đồi phủ đầy cỏ sẽ chuyển sang màu nâu sô-cô-la, đó chính là sự ra đời của tên “Chocolate”. Người dân địa phương còn sáng tác nên truyền thuyết về giọt nước mắt của người khổng lồ để giải thích nên sự hình thành của các ngọn đồi này. 

Không những mang giá trị khoa học độc đáo, sự hùng vĩ của những ngọn đồi Chocolate dưới ánh chiều hoàng hôn luôn là địa điểm mà du khách không thể bỏ lỡ khi đến khám phá công viên địa chất Đảo Bohol. 

Hình 5. Hoàng hôn ở đồi Chocolate
Hình 6. Một ngọn đồi Chocolate bị phá hủy do động đất M7.2 năm 2013

Hang Hinagdanan 

Cách trung tâm thủ phủ Tagbilaran khoảng 8,5km về phía tây nam, hang Hinagdanan là một trong những hang động karst của công viên địa chất Đảo Bohol. Câu chuyện phát hiện ra hang được kể lại như sau: Hang Hinagdanan vô tình được khám phá bởi một người nông dân bị vấp té bởi một cái hố khi đang dọn dẹp khu đất của mình. Tò mò, ông ta đã ném một hòn đá xuống cái hố và nghe thấy tiếng nước bắn lên. Sau đó, ông quyết định xây một cầu thang đi xuống hố, tiếng địa phương gọi là “hagdan”, để khám phá vẻ đẹp bí ẩn này. 

Điều đặc biệt bên trong Hinagdanan, bên cạnh những cột măng đá, nhũ đá là một hồ nước trong xanh được cho là sâu 10 – 20m?. 

Nơi đây còn là một di tích lịch sử quan trọng của Bohol vào thời chiến tranh thế giới thứ 2.

Hình 7. Hang Hinagdanan

4. Giá trị sinh thái và văn hóa 

Khu bảo tồn khỉ Tarsier 

Tại khu bảo tồn khỉ Tarsier, du khách có cơ hội tận mắt quan sát được loài linh trưởng có kích thước nhỏ nhất thế giới, cùng đôi mắt to và khả năng xoay đầu gần 180 độ. Chúng từng bị cho là đã tuyệt chủng, tuy nhiên về sau lại xuất hiện ở các cánh rừng ở Philippines và Indonesia. Khỉ Tarsier là động vật ăn đêm, cực kỳ nhạy cảm với ánh sáng và tiếng động nên lưu ý dành cho du khách đến tham quan là không được sử dụng đèn flash và không được trò chuyện lớn tiếng. 

Hình 8. Khỉ Tarsier

Các nhà thờ ở Bohol 

Đảo Bohol ở Philippines nổi tiếng với nhiều nhà thờ cổ kính mang đậm dấu ấn lịch sử và kiến trúc Tây Ban Nha như: Nhà thờ Baclayon, nhà thờ Loon, nhà thờ Loay, … Điều đặc biệt ở các nhà thờ nơi đây là đều quay mặt về hướng biển. 

Một số nhà thờ trên đảo cũng đã bị tàn phá nặng nề sau trận động đất M7.2 năm 2013. 

Hình 9. Nhà thờ Loon bị phá hủy hoàn toàn năm 2013 (a) (Nguồn: PHIVOLCS); Nhà thờ Loon được xây dựng lại và hoàn tất năm 2021 (b)

Du thuyền trên sông Loboc 

Ăn trưa trên du thuyền trôi theo dòng sông Loboc là một trải nghiệm vô cùng ấn tượng đối với du khách. Được trải nghiệm các món ăn địa phương, thưởng thức những bài hát và điệu nhảy múa với người dân bản địa và nhất là được chìm đắm trong khung cảnh hai bên cánh rừng nguyên sinh giữa dòng xanh biếc, tất cả tạo cho du khách cảm giác thư giãn và bình yên. 

Hình 10. Du thuyền trên sông Loboc 

5. Kết 

Từng công viên địa chất là những trang lịch sử ghi lại quá trình kiến tạo đầy biến động của Trái Đất, với Bohol nổi bật nhờ các di sản từ trận động đất năm 2013. Những di sản này không chỉ là bài học về sức mạnh tàn phá của tự nhiên mà còn là lời nhắc nhở về trách nhiệm của chúng ta với hành tinh và cách ứng phó, giảm thiểu và phục hồi sau những tổn thương. Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đảo Bohol, không những là một điểm đến hấp dẫn với tài nguyên địa du lịch dồi dào và phong phú, mà còn là nơi phù hợp dành cho những hoạt động giáo dục đặc biệt về tai biến tự nhiên và khoa học Trái Đất. 

“Chuyến thực địa tham quan công viên địa chất toàn cầu Bohol (Bohol UGGp) là một phần trong Khóa học về Tai biến Tự nhiên khu vực Tây Thái Bình Dương (Natural Hazards in the Western Pacific Islands)  năm 2025 của Viện Tiên tiến (Advanced Institute – AI), diễn ra từ ngày 7 đến ngày 11 tháng 7 năm 2025 tại Bohol, Philippines. Sự kiện này được tổ chức bởi International Centre of Excellence (IRDR ICoE-Đài Bắc) phối hợp với Hội đồng Khoa học Quốc tế (International Science Council – ISC), Viện Hàn lâm Sinica (Academia Sinica), Đại học Trung ương Quốc gia (National Central University -NCU), Đại học Quốc gia Dong Hwa (National Dong Hwa University – NDHU), Đại học Quốc gia Chung Thành (National Chung Cheng University – CCU), Viện Núi lửa và Địa chấn học Philippines (Philippine Institute of Volcanology and Seismology – PHILVOCS), Đại học Quốc gia Đài Loan (National Taiwan University – NTU)”.

Quế Nam.

Năm quan điểm vĩ đại về Môi trường trong Tông huấn Laudato Si’ của Đức Thánh Cha Phanxicô

Nhân ngày Trái đất 22/4/2025, Blog Địa Môi trường xin đăng bài viết của TS. Nguyễn Trường Ngân về Năm quan điểm vĩ đại về Môi trường trong Tông huấn Laudato Si’ của Đức Thánh Cha Phanxicô.

——————————————————————————————————————————————

(Bài viết vào ngày mất của ĐTC Phanxicô – 21/04/2025)

Đức Thánh Cha Phanxicô (ĐTC) – vị Giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo – không chỉ được ngưỡng mộ vì đời sống giản dị, lòng nhân ái và tinh thần phục vụ, mà còn bởi tầm nhìn sâu sắc và tiên phong về môi sinh. Năm 2015, ĐTC công bố tông huấn Laudato Si’ (“Ngợi khen Chúa”) – một văn kiện dài 162 trang chia thành 246 mục (đánh số tự 1 – 246) và các lời cầu nguyện cho Trái đất vào cuối văn kiện. Đây là một tài liệu mang tính bước ngoặt, một lời kêu gọi toàn nhân loại “hoán cải sinh thái”, thay đổi lối sống và cơ cấu xã hội để chăm sóc Ngôi nhà chung – Trái Đất. Laudato Si’ đã vượt ra ngoài khuôn khổ tôn giáo, trở thành một tài liệu có ảnh hưởng lớn trong các diễn đàn môi trường toàn cầu, được các nhà khoa học, nhà hoạt động và chính phủ đón nhận như một tiếng nói đạo đức mạnh mẽ giữa thời đại khủng hoảng sinh thái.

Mở đầu Tông huấn, ĐTC trích lời bài hát “Bài ca vạn vật” của vị thánh của Môi trường (Francis Assisi): “Lạy Thiên Chúa của con, Chúc tụng Chúa qua người Chị của chúng con là Mẹ Trái Đất, người nuôi dưỡng và chi phối chúng con, là người sản sinh hoa trái phong phú với biết bao hoa thơm cỏ lạ”.

Nhưng: “Người chị này giờ đây đang kêu khóc vì chúng ta đã tiêm nhiễm lên chị những mối nguy qua cách sử dụng vô trách nhiệm và lạm dụng của cải vật chất. Chúng ta tự xem mình là chủ nhân của trái đất này và muốn bóc lột ra sao tùy ý. Bạo lực trong tâm hồn chúng ta do tội lỗi gây nên cũng phản chiếu trong những triệu chứng của bệnh tật nơi đất đai, nguồn nước, trong không khí và mọi dạng thức của sự sống. Đây là lý do vì sao mà chính trái đất, bị đè nặng và sử dụng lãng phí, lại là một trong số những người bị bỏ rơi và đối xử tàn tệ nhất trong số những người nghèo; chị đang “rên siết và quằn quại”. Chúng ta đã quên mất bản thân chúng ta là bụi đất; xác thể thực sự của chúng ta được làm từ những yếu tố của đất, chúng ta hít thở bầu khí và lãnh nhận sự sống và sự trong lành từ nguồn nước của trái đất” (2).

Chính ĐTC là một tấm gương sống động cho lời kêu gọi ấy. Từ việc lựa chọn lối sống tiết giản, sử dụng phương tiện di chuyển thân thiện với môi trường, đến việc chuyển đổi Vatican thành một quốc gia trung lập carbon đầu tiên trên thế giới, ngài thể hiện sự nhất quán giữa niềm tin và hành động. Hình ảnh của ngài đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người, đặc biệt là giới trẻ, sống xanh và có trách nhiệm hơn với hành tinh.

Bài viết này tóm lược 5 quan điểm trong Laudato Si’ có tầm ảnh hưởng sâu sắc nhất đến lĩnh vực môi trường toàn cầu. Đồng thời, bài viết cũng điểm qua những hành động cụ thể mà thế giới và Việt Nam đã làm để đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha.

ĐTC viết: “Chưa bao giờ chúng ta lại làm tổn thương nặng nề và đối xử tệ hại với ngôi nhà chung của chúng ta như trong suốt hai trăm năm qua” (53). “Giấc mơ của Prômơtê được làm bá chủ thế giới là điều ăn sâu trong tâm trí nhiều người, trong đó nổi bật ý tưởng chỉ có những người nhút nhát mới quan tâm bảo vệ thiên nhiên. Thay vào đó, “sự thống trị” của chúng ta trên vũ trụ nên được hiểu đúng là một người quản lý có trách nhiệm” (116) “Không thể xem thiên nhiên như một thứ tách rời khỏi bản thân chúng ta hoặc như một bối cảnh thuần tuý để chúng ta sống trong đó. Chúng ta là một phần của thiên nhiên, được hội nhập trong thiên nhiên và liên tục tương tác với thiên nhiên.” (139). Trong ngôi nhà chung đó, “tất cả các loài thụ tạo đều có liên hệ với nhau, mỗi loài phải được nuôi dưỡng bằng tình yêu và sự tôn trọng, vì tất cả chúng ta là những sinh vật sống lệ thuộc vào nhau” (42). Do đó, chăm sóc bảo vệ ngôi nhà chung là trách nhiệm của toàn thể gia dình, cộng đoàn và nhân loại.

Những hành động cụ thể:

– Liên Hiệp Quốc chính thức thừa nhận vai trò đạo đức của Laudato Si’ trong nhiều hội nghị về khí hậu, đặc biệt là COP21 (Paris, 2015).

– Giáo hội Công giáo toàn cầu đã tổ chức Tuần lễ Laudato Si’ hằng năm (Laudato Si’ Week) để thúc đẩy hành động vì môi trường.

– Nhiều trường học, tổ chức tôn giáo, và địa phương đã áp dụng cách tiếp cận “chăm sóc Ngôi nhà chung” như một triết lý hành động.

– Ủy ban Công lý và Hòa bình trực thuộc HĐGMVN đã tổ chức các buổi tọa đàm, tĩnh tâm về Laudato Si’, phổ biến rộng rãi đến các giáo xứ.

– Nhiều giáo phận như Bùi Chu, Thái Bình, Xuân Lộc, Huế… đã phát động “Chúa nhật vì môi trường”, trồng cây, thu gom rác, kêu gọi tiết giảm tiêu dùng.

Suốt cuộc đời, ĐTC luôn đấu tranh vì lợi ích của người nghèo. Ngài luôn nhấn mạnh khi phát biểu tại các diễn đàn trên thế giới rằng “người nghèo chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ khủng hoảng sinh thái”. Do vậy, bảo vệ môi trường chính là các hành động bảo vệ công lý. Trong Laudato Si’, ĐTC viết: “Con người trải nghiệm hằng ngày một số loại ô nhiễm. Tiếp xúc với những chất ô nhiễm trong khí quyển tạo ra một loạt các nguy hại về sức khoẻ, đặc biệt là với người nghèo, và tạo nên hàng triệu cái chết sớm” (20). “Cả kinh nghiệm hằng ngày và nghiên cứu khoa học cho thấy rằng người nghèo khổ phải hứng chịu những tác động nghiêm trọng nhất của tất cả mọi cuộc tấn công vào môi trường” (48). Và do đó “chúng ta cần nhận biết rằng tiếp cận sinh thái thực sự luôn luôn là một cách tiếp cận mang tính xã hội; hội nhập các vấn đề về công lý vào trong những cuộc đấu tranh về môi trường, để có thể nghe được cả tiếng than khóc của trái đất và tiếng than khóc của người nghèo” (49). “Chúng ta không đối diện với hai cuộc khủng hoảng riêng biệt của môi trường và xã hội, nhưng đối diện với một cuộc khủng hoảng phức tạp duy nhất cả về xã hội lẫn môi trường” (139). “Chính trị và kinh tế có xu hướng đổ lỗi cho nhau khi đối diện với tình trạng nghèo nàn và suy thoái môi trường” (198).

Việc lồng ghép “Công lý sinh thái” vào các chính sách phải được thực hiện nghiêm túc thông qua thủ tục Đánh giá tác động môi trường: “Không phải sau khi đã hoạch định đường hướng kinh doanh hay đề xuất một chính sách, kế hoạch hay chương trình cụ thể mới đưa ra việc đánh giá tác động đến môi trường. Nó phải là một phần của tiến trình ngay từ ban đầu, và được thực hiện liên ngành, minh bạch và độc lập khỏi mọi áp lực kinh tế hay chính trị. Việc đánh giá này cần phải gắn liền với nghiên cứu về các điều kiện làm việc và tác động trên sức khoẻ thể lý và tinh thần của người dân, trên nền kinh tế địa phương và an toàn công cộng” (183).

Những hành động cụ thể:

– Các tổ chức như Caritas Internationalis, CIDSE, và nhiều tổ chức xã hội khác đang kết hợp công tác giảm nghèo với bảo vệ môi trường (ví dụ: nông nghiệp tái sinh, năng lượng tái tạo cho vùng sâu).

– Chương trình Mục vụ Sinh thái Toàn cầu (GEP) giúp các cộng đồng nghèo cải thiện đời sống gắn với bảo tồn tài nguyên.

– Các tổ chức phi chính phủ và nhóm xã hội dân sự như GreenHub, CHANGE, Mạng lưới Sống xanh,… đã phát triển nhiều dự án hướng đến cộng đồng nghèo chịu ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu (ĐBSCL, miền Trung).

– Giáo xứ Tam Tòa (Quảng Bình) và nhiều cộng đoàn vùng ven biển đã phối hợp với Caritas để phục hồi sinh kế gắn với bảo vệ môi trường biển.

ĐTC chỉ rõ nguyên nhân sâu xa của lối sống không bền vững là chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa cá nhân: “Ám ảnh với lối sống tiêu thụ, nhất là khi chỉ có một số ít người có khả năng duy trì lối sống ấy, sẽ dẫn tới bạo lực và hủy diệt lẫn nhau. Tâm hồn của con người càng trống rỗng bao nhiêu thì họ càng cần nhiều thứ để mua, sở hữu và tiêu thụ bấy nhiêu.” (204). ĐTC cổ vũ cho một “lối sống ngôn sứ và chiêm niệm, có khả năng vui hưởng cách sâu xa sự tự do thoát khỏi nỗi ám ảnh về tiêu thụ” (222). “Luân lý buộc chúng ta xem xét những hành vi và chọn lựa cá nhân tác động ra sao đến môi trường xung quanh. Nếu chúng ta vượt thắng được chủ nghĩa cá nhân, chúng ta có thể thực sự phát huy một lối sống khác và đem lại những thay đổi ý nghĩa trong xã hội” (208). Và, để lối sống giản dị trở thành đạo đức, vai trò của giáo dục môi trường vô cùng quan trọng: “Giáo dục bao gồm cả việc phê bình về “những huyền thoại” của cái hiện đại dựa trên não trạng thực dụng (chủ nghĩa cá nhân, sự tiến bộ vô hạn, sự cạnh tranh, chủ nghĩa tiêu thụ, thị trường bất quy tắc) và tìm cách khôi phục các cấp độ khác nhau của sự cân bằng sinh thái: trong nội tâm với chính mình, liên đới với người khác, với thiên nhiên và các loài sinh vật khác” (210).

Những hành động cụ thể:

– Phong trào “Zero Waste”, “Minimalism”, “Degrowth Economy” lan rộng như phản ứng tích cực với tinh thần Laudato Si’.

– ĐTC nhiều lần phát biểu chống lại chủ nghĩa tiêu thụ trong các hội nghị kinh tế toàn cầu như Davos.

– Làn sóng “sống xanh”, “tối giản”, “mua vừa đủ – dùng có ý thức” ngày càng phổ biến ở Việt Nam, nhất là trong giới trẻ.

– Nhiều cộng đoàn Công giáo trên khắp VN tổ chức đổi đồ cũ, trồng rau sạch tại nhà, xây dựng nhà thờ không rác nhựa.

“Hoán cải sinh thái” (Ecological Conversion) là khái niệm quan trọng nhất trong Laudato Si’. ĐTC mời gọi mỗi cá nhân cần thay đổi tận căn trong “nhận thức, lối sống và tương quan giữa cá nhân với tha nhân (người khác), thiên nhiên (thụ tạo) và với Thiên Chúa”. Đây là giải pháp quan trọng nhất để “chữa lành cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu”.

ĐTC viết: “chúng ta phải xét lại đời sống và chân nhận những gì chúng ta gây thiệt hại đến công trình tạo dựng của Thiên Chúa ngang qua những hoạt động của chúng ta và cả những hành động cần làm mà chúng ta bỏ qua. Chúng ta cần phải hoán cải, phải thay đổi tâm hồn”. “Tuy nhiên, chỉ có các cá nhân tự cải thiện thì không đủ để giải quyết tình hình cực kỳ phức tạp của thế giới hôm nay. Các cá nhân riêng lẻ dần dần có thể mất khả năng và tự do để thoát khỏi não trạng thực dụng, và cuối cùng đầu hàng trước chủ nghĩa tiêu thụ vô đạo đức đang tước đoạt ý thức xã hội và sinh thái. Các vấn đề xã hội phải được các mạng lưới cộng đồng quan tâm, chứ không chỉ bởi một tổng thể các cá nhân có hành vi tốt. Nhiệm vụ này tạo nên những đòi hỏi lớn lao mà con người không bao giờ đạt được bằng sáng kiến cá nhân hay thậm chí bởi nỗ lực hợp tác của những hình thức riêng lẻ. Việc điều hành thế giới mời gọi một sự kết hợp các nguồn lực và thành tựu phát xuất từ một thái độ khác. Hoán cải sinh thái cần thiết cho một sự thay đổi dài lâu cũng là một sự hoán cải cộng đồng” (219).

Những hành động cụ thể:

– Vatican thành lập “Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện” để lồng ghép hoán cải sinh thái trong các hoạt động mục vụ, giáo dục, y tế.

– Hàng trăm dòng tu, tổ chức Công giáo cam kết chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, lối sống sinh thái.

– Tại Việt Nam, Giáo xứ Hà Nội, giáo phận Long Xuyên… triển khai Chương trình 5 không: không rác thải nhựa, không vứt rác bừa bãi, không đốt rác, không tiêu dùng lãng phí, không dùng thực phẩm độc hại.

– Giới trẻ Công giáo Việt Nam tổ chức “Ngày hoán cải sinh thái” với các hoạt động truyền thông và hành động vì môi trường.

5. Quan điểm “đối thoại liên tôn và liên ngành về Môi sinh”

Do bởi Trái đất là “ngôi nhà chung”, do đó, ĐTC quan điểm, để giải quyết các cuộc khủng hoảng, Tất cả mọi người (không phân biệt tín ngưỡng hay quốc tịch) phải ngồi lại để đối thoại và hợp tác cùng tìm ra các giải pháp phù hợp để “bảo vệ ngôi nhà chung”.

– Đối thoại giữa khoa học và tôn giáo “Khoa học và tôn giáo, cùng với những cách tiếp cận nhất định của mình đối với sự hiểu biết về thực tại, có thể bước vào một cuộc đối thoại nghiêm túc sinh hoa trái cho cả hai” (62).

– Đối thoại ngôn ngữ “Phải quan tâm hơn đến nền văn hoá địa phương khi nghiên cứu các vấn đề môi trường, cổ võ cuộc đối thoại giữa ngôn ngữ khoa học – kĩ thuật và ngôn ngữ của người dân” (143).

– Đối thoại giữa các quốc gia: “Sự thông thái đã đem lại những tiến bộ công nghệ lớn lao lại tỏ ra bất lực trong việc tìm kiếm những cách thức hữu hiệu nhằm giải quyết những vấn đề nghiêm trọng về môi trường và xã hội trên khắp thế giới. Cần có sự đồng thuận toàn cầu mới có thể giải quyết những vấn đề sâu xa hơn, chứ không thể giải quyết bằng những hành động đơn phương của các quốc gia riêng lẻ” (164).

– Đối thoại quốc gia và địa phương “Vấn đề môi trường và phát triển kinh tế không chỉ được tiếp cận từ quan điểm khác biệt giữa các quốc gia; nhưng chúng còn yêu cầu chú ý đến các chính sách quốc gia và địa phương” (176).

– Đối thoại và minh bạch trong quyết định: “đánh giá tác động môi trường của các doanh nghiệp và dự án đòi hỏi những tiến trình chính trị minh bạch có sự tự do trao đổi quan điểm. Mặt khác, các hình thức tham nhũng nhằm trao đổi lợi ích vốn che giấu tác động thực sự đến môi trường của một dự án thường tạo ra những thoả thuận giả dối, không thông tin và tạo điều kiện để tranh luận đầy đủ” (182).

– Đối thoại Chính trị và Kinh tế vì mục tiêu hoàn thiện con người: “Các chính sách không được lệ thuộc vào kinh tế, cũng như kinh tế không lệ thuộc vào mệnh lệnh của thứ mô hình kĩ trị chạy theo hiệu quả” (189).

Những hành động cụ thể:

– Laudato Si’ đã trở thành cầu nối đối thoại liên tôn sâu sắc, đặc biệt trong các hội nghị như “Faith for Earth” (LHQ – UNEP).

– Các nhà khoa học, nghệ sĩ, lãnh đạo chính trị, tôn giáo cùng ký tên trong Hiệp ước Khí hậu của Vatican (2022).

– Tại Việt Nam, các diễn đàn về biến đổi khí hậu (như do GIZ, UNDP tổ chức), Giáo hội Công giáo đã tham gia cùng Phật giáo, Cao Đài, Tin Lành… bàn giải pháp môi sinh.

– Ở nước ta, một số đại học (Đại học Công giáo, Đại học Huế, ĐH Bách khoa…) đã đưa Laudato Si’ vào chương trình đối thoại liên ngành về phát triển bền vững.

Thay lời kết

Động lực chính để tác giả hoàn thành bài viết này là xuất phát từ cảm xúc cá nhân đối với Cha Phanxicô và kiến thức hạn hẹp của bản thân khi tìm hiểu và vận dụng Tông huấn Laudato Si’. Do đó, các luận điểm đưa ra trong bài viết chắc chắn còn rất nhiều điều cần trao đổi và hoàn thiện. Tác giả bài viết rất trân quý tất cả những góp ý và chia sẻ từ người đọc.

Toàn bộ các trích dẫn trong bài viết này sử dụng từ bản chuyển ngữ của Ủy Ban Bác Ái xã hội – Caritas Việt Nam. Đây là bản chuyển ngữ từ bản tiếng Anh “ Encyclical letter LAUDATO SI’ of the Holy Father Francis on care for our common home”.

Tp.HCM, ngày 21 tháng 04 năm 2025

Phanxicô Assissi. Nguyễn Trường Ngân.

Động đất tại Myanmar 28/03/2025

Bài viết tổng hợp từ trang thông tin M 7.7 – 2025 Mandalay, Burma (Myanmar) Earthquake của Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS).

Độ lớn động đất và nguyên nhân xảy ra động đất

Trận động đất M7.7 ngày 28 tháng 3 năm 2025 gần Mandalay, Myanmar, xảy ra do đứt gãy trượt ngang (strike-slip fault) Sagaing giữa các mảng Ấn Độ và Á-Âu, đây là một đứt gãy chính chạy dọc Myanmar theo hướng bắc-nam, với độ lớn đứt gãy khoảng 200 km x 20 km (dài x rộng).

Độ lớn (Magnitude): 7.7 mww

Vị trí tâm chấn (Epicenter): 21.996°N  95.926°E (± 7.5 km)

Độ sâu chấn tiêu (Hypocenter/ Focus): 10.0 km ± 1.7

Thời gian xảy ra: 2025-03-28 06:20:52.684 UTC tức 13 giờ 20 phút 20 giây (giờ Hà Nội)

Sự kiện này được xác định là động đất chính tiềm tàng của chuỗi 27 trận động đất tai đây. Xem 27 sự kiện trong chuỗi.

Khu vực này đã trải qua các trận động đất trượt ngang lớn tương tự, với sáu trận động đất khác có cường độ 7 độ richter trở lên xảy ra với khoảng 150 dặm (250 km) của trận động đất ngày 28 tháng 3 năm 2025 kể từ năm 1900. Trận động đất gần đây nhất là trận động đất mạnh 7,0 độ richter vào tháng 1 năm 1990, khiến 32 tòa nhà đổ sập. Một trận động đất mạnh 7,9 độ richter xảy ra ở phía nam trận động đất ngày nay vào tháng 2 năm 1912. Trong vùng biến dạng kiến ​​tạo rộng lớn này, các trận động đất lớn khác, bao gồm trận động đất mạnh 7,7 độ richter vào năm 1988, đã gây ra hàng chục trường hợp tử vong.

Bản đồ biểu diễn vị trí động đất với chấn tâm (ngôi sao), các tiền chấn và hậu chấn (các hình tròn màu vàng, cam), đứt gãy Sagang (màu xám), các trận động đất trong quá khứ trong khu vực quan sát (hình trong lớn). Nguồn: USGS Interactive map.

Động đất ở dãy Himalaya chủ yếu là kết quả của sự va chạm lục địa giữa các mảng Ấn Độ và Á-Âu, đang hội tụ với tốc độ tương đối là 40-50 mm/năm. Sự đẩy về phía bắc của Ấn Độ bên dưới Á-Âu tạo ra nhiều trận động đất và do đó khiến khu vực này trở thành một trong những vùng nguy hiểm nhất về động đất trên Trái đất. Biểu hiện bề mặt của ranh giới mảng kiến tạo được xác định bởi các đặc điểm địa chất chính: dãy Sulaiman kéo dài theo hướng bắc-nam ở phía tây, vòng cung Indo-Burma ở phía đông và mặt trước dãy Himalaya theo hướng đông-tây ở phía bắc Ấn Độ. Các cấu trúc này phản ánh sự tương tác giữa mảng Ấn Độ và các mảng lân cận, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kiến tạo khu vực.

Cường độ động đất và các hệ quả

Trận động đất có cường độ IX/ X theo thang đo Mercalli (USGS chỉnh sửa). Theo thang này 4 thành phố chịu thiệt hại nặng nề nhất (cấp IX) là Sagaing (79 k dân), Pyinmana (97k dân), Nay Pyi Taw (925k dân) và Yamethin (60k dân); cấp VIII là Mandalay (1,208 k dân) và Taungoo (107k dân).

Nhìn chung, dân số trong khu vực này sinh sống trong các công trình dễ bị rung chuyển do động đất, mặc dù có những công trình chịu được. Các loại công trình dễ bị tổn thương chủ yếu là công trình không chính thức (kim loại, gỗ, thép mạ kẽm (GI), v.v.) và các loại công trình không xác định/lẫn lộn.

Tác động thứ cấp
Các trận động đất gần đây trong khu vực này đã gây ra các mối nguy hiểm thứ cấp như lở đất có thể góp phần gây ra thiệt hại.

Báo cáo của PAGER cho thấy cường độ động đất lên đến IX (dữ dội) tại tâm chấn và một số khu vực xung quanh với thiệt hại có thể nhân mạng và kinh tế đều mức màu đỏ (mức cảnh báo cao nhất về thiệt hại do chấn động)

Dự báo về Dư chấn của trận động đất này từ USGS

USGS ước tính khả năng xảy ra nhiều dư chấn hơn trong tuần tới cho đến ngày 6 tháng 4 năm 2025 lúc 23:00 (UTC) như sau:

Có hơn 99% khả năng xảy ra dư chấn có độ lớn từ 3 trở lên trong tuần tới và nhiều khả năng xảy ra từ 21 đến 460 dư chấn.
Có hơn 99% khả năng xảy ra dư chấn có độ lớn từ 4 trở lên trong tuần tới và nhiều khả năng xảy ra từ 2 đến 45 dư chấn.
Có 72% khả năng xảy ra dư chấn có độ lớn từ 5 trở lên trong tuần tới và nhiều khả năng xảy ra từ 0 đến 5 dư chấn.
Có 13% khả năng xảy ra dư chấn có độ lớn từ 6 trở lên trong tuần tới và nhiều khả năng xảy ra từ 0 đến 1 dư chấn.
Có 1% khả năng xảy ra dư chấn có độ lớn 7 trở lên trong tuần tới, một trận động đất như vậy là có thể xảy ra nhưng với xác suất thấp.
Có 1/300 khả năng (0,3%) rằng trận động đất này trở thành tiền chấn của một trận động đất lớn hơn (độ lớn 7,7 trở lên) trong tuần tới, một trận động đất như vậy là có thể xảy ra nhưng với xác suất thấp.

Tuy nhiên Dự báo của USGS thay đổi theo thời gian, đặc biệt là trong 72 giờ đầu sau một trận động đất chính. Những thay đổi này xảy ra do ba lý do: sự suy giảm thông thường của các dư chấn theo thời gian, các dư chấn lớn hơn gây ra nhiều hoạt động hơn và những thay đổi trong mô hình dự báo do quá trình thu thập dữ liệu đang diễn ra.

Phương Chi lược dịch.

Geo-workshop: Địa di sản và các khái niệm liên quan 

Ngày 29/9/2024 vừa qua, nhóm nghiên cứu Địa môi trường cùng các bạn cộng tác viên đã tổ chức thành công buổi workshop mang tên “Geo-workshop: Địa di sản và các khái niệm liên quan” với slogan: Understanding the Earth, Conserving the Life (Tạm dịch: Hiểu biết về Trái Đất, Gìn giữ được sự sống”. Đây là hoạt động nằm trong dự án Phổ biến kiến thức địa di sản cho cộng đồng mà nhóm đang nghiên cứu và thực hiện cũng như chào mừng ngày quốc tế Đa dạng địa học 6 tháng 10 (International Geodiversity Day) sắp tới đây. 

Thông qua các khảo sát và tuyên truyền trước đó, buổi workshop đã diễn ra với sự tham gia của 12 bạn học sinh trung học phổ thông đến từ các trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh như: THPT chuyên Lê Hồng Phong, Phổ thông Năng Khiếu, THPT Bùi Thị Xuân, THPT Lương Thế Vinh, THPT Trần Khai Nguyên. Các bạn đã được tham gia trò chơi và được nghe giảng về các khái niệm địa di sản (Geoheritage), đa dạng địa học (Geodiversity), công viên địa chất (Geopark) và địa du lịch (Geotourism). 

Kết quả đạt được thông qua khảo sát cuối giờ cho thấy hầu hết các bạn đều hài lòng khi biết thêm các kiến thức mới, biết được thêm các công viên địa chất toàn cầu tại Việt Nam. Từ đó, các bạn cũng bày tỏ mong muốn giữ gìn và bảo tồn địa di sản nói riêng và tài nguyên thiên nhiên nói chung. 

Kết thúc buổi workshop, tất cả các bạn học sinh đều rất hào hứng và thích được tham gia thêm nhiều buổi workshop tương tự trong tương lai. Đây chính là nguồn động lực lớn lao cho nhóm nghiên cứu tiếp tục phát triển những ý tưởng mới hơn trong dự án Phổ biến kiến thức địa di sản cho cộng đồng. 

Nhân đây, nhóm nghiên cứu gửi lời cảm ơn đến Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, ĐHQG-HCM cùng các bạn cộng tác viên và các bạn học sinh trung học phổ thông đã hỗ trợ và tham gia nhiệt tình trong buổi workshop này. 

Dưới đây là một số hình ảnh của Geo-workshop: 

Trò chơi đầu giờ
Cùng nhau tìm hiểu về địa du lịch
Ban tổ chức chương trình (Nhóm nghiên cứu địa môi trường và các cộng tác viên)
Mừng ngày Quốc tế Đa dạng địa học 06/10/2024

Quế Nam.

Hội nghị quốc tế lần thứ 8 của Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương 

The 8th Asia Pacific Geopark Network Symposium 

Mạng lưới công viên địa chất toàn cầu UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương (APGN) được thành lập theo Điều 18 của Quy chế Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu (GGN). Các hoạt động của Mạng lưới Công viên địa chất khu vực bao gồm tổ chức các Hội nghị Công viên địa chất khu vực, hội thảo và hội nghị chuyên đề, các hoạt động xây dựng năng lực, các dự án chung, các hoạt động quảng bá và các ấn phẩm chung. 
Hội nghị quốc tế lần thứ 8 của mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu khu vực châu Á – Thái Bình Dương (APGN-8) năm nay diễn ra từ ngày 8-15/9 được tổ chức tại Công viên địa chất Non Nước Cao Bằng của Việt Nam với sự tham gia của hơn 800 đại biểu đến từ 19 quốc gia khác nhau bao gồm các chuyên gia, nhà khoa học nghiên cứu về lĩnh vực địa chất, sinh thái học, môi trường, văn hóa, du lịch học,…  đại diện từ các công viên địa chất toàn cầu trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. 

Phiên khai mạc Hội nghị

Hội nghị năm nay được diễn ra với chủ đề  “Cộng đồng địa phương và phát triển bền vững trong vùng công viên địa chất” đã nhận được hơn 160 bài báo cáo khoa học, được chia ra thành 6 phân ban: 

  • Tri thức bản địa và vai trò của cộng đồng địa phương trong các hoạt động của công viên địa chất 
  • Rủi ro địa chất, tai biến tự nhiên, giảm thiểu tác động và thích ứng với biến đổi khí hậu 
  • Kiểm kê, bảo vệ di sản và sử dụng bền vững 
  • Công viên địa chất và các mục tiêu phát triển bền vững khu vực 
  • Địa giáo dục và phổ biến hóa khoa học 
  • Công viên địa chất tiềm năng: Khó khăn và thách thức. 

  Trong khuôn khổ hội nghị, hai chuyến thực địa về phía Bắc và phía Đông cũng đã được tổ chức thành công và an toàn cho các đại biểu để có dịp tham quan chiêm ngưỡng các di sản địa chất và văn hóa của công viên địa chất Non nước Cao Bằng như đèo Mã Phục, núi Mắt Thần, thác Bản Giốc, động Ngườm Ngao, Làng hương Phja Thắp, khu di tích Pác Pó, vườn đá Hoàng Tung, … 

Bà Lidia Brito Trợ lý Tổng Giám đốc UNESCO về khoa học tự nhiên đã nhấn mạnh: “Hội nghị APGN-8 tổ chức đánh dấu chặng đường 20 năm thành lập GGN là “hành trình trẻ” với mô hình tiêu biểu về phát triển kinh tế – xã hội bền vững để lưu giữ “Ký ức trái đất”. Tôi mong muốn các quốc gia thành viên GGN tăng cường giáo dục kiến thức về công viên địa chất cho thế hệ trẻ để thúc đẩy nấc thang mới phát triển bền vững, chủ động giải quyết, ứng phó với vấn đề bức thiết toàn cầu”. 

Tại lễ bế mạc của hội nghị APGN-8, Hội đồng GGN và các thành viên đưa ra “Tuyên bố Cao Bằng” với 8 nội dung với quan điểm mới tích cực thúc đẩy các CVĐC thực hiện khuyến nghị của GGN và UNESCO. 

Trong bối cảnh khu vực miền Bắc đang đối mặt với hậu quả của siêu bão Yagi để lại, ban quản lý công viên địa chất Non nước Cao Bằng cũng như ban lãnh đạo tỉnh với sự chuẩn bị chu đáo từ trước đã tổ chức Hội nghị đã thành công tốt đẹp.

Hội nghị APGN lần thứ 9 sẽ được tổ chức tại công viên địa chất toàn cầu Langkawi (Malaysia).

Tuyên bố Cao Bằng UNESCO với 8 nội dung khuyến nghị thành viên GGN thực hiện đã khẳng định vai trò quan trọng của các CVĐC trong việc thúc đẩy phát triển bền vững và duy trì mối quan hệ hài hòa giữa nhân loại và thiên nhiên. Khuyến nghị tất cả các bên liên quan, chính quyền địa phương và khu vực đều được đại diện trong quá trình quản lý CVĐC toàn cầu UNESCO. Trong đó nhấn mạnh sự cần thiết của việc bảo tồn và phát huy văn hóa DTTS và các tri thức bản địa trong khu vực CVĐC. Khuyến nghị “lấy nhân dân làm trung tâm” đặc biệt là DTTS, tham gia bảo tồn và quảng bá các khu vực CVĐC. Khẳng định sự đa dạng về địa chất, sinh học và văn hóa xã hội có mối liên hệ chặt chẽ để thúc đẩy phát triển bền vững, thúc đẩy và đóng góp vào 17 mục tiêu phát triển bền vững của Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc, đặc biệt là trong giảm nghèo, giáo dục chất lượng, quan hệ đối tác vì các mục tiêu giảm thiểu BĐKH, giảm bất bình đẳng và bình đẳng giới, bảo tồn, phát huy giá trị các loại hình di sản và tài nguyên thiên nhiên hướng đến phát triển kinh tế – xã hội xanh, bền vững, chủ động ứng phó và xây dựng chiến lược lâu dài về giải quyết những vấn đề toàn cầu. (Theo báo Quân đội nhân dân) 


 Một số hình ảnh từ Hội nghị

Phương Chi – Quế Nam đưa tin và tổng hợp. 

Lũ cát tại Mũi Né

Khoảng 3h, sáng 21/5/2024, sau trận mưa lớn kéo dài nhiều giờ, nước lũ từ trên đồi cao phía sau khu dân cư đã ập xuống tuyến đường ven biển 706 nối Hàm Tiến – Mũi Né. Lũ cát lấp kín đường và tràn qua hai nhà hàng Đại Dương Xanh và Viễn Phương kề biển.

Đồi cát lở tạo hố rộng hàng chục m2, sâu 2-3 m, làm hư hỏng hạ tầng giao thông của dự án bất động sản nghỉ dưỡng ở khu vực.

Cát tràn xuống từ các dự án trên đồi cao. Ảnh: Nguyên Tư
Vị trí khu vực bị lũ cát tràn xuống vùi lấp. Đồ họa: Khánh Hoàng

Đây là khu vực xây dựng hạ tầng Dự án Sentosa Villa Mũi Né (thành phố Phan Thiết, Bình Thuận), đang được triển khai san gạt đất trên nền đất có tính chất kết dính kém. Ven tuyến đường giao thông lối đi vào Dự án không có kè cứng nên dễ xảy ra hiện tượng sạt khi có mưa lớn.

Sự cố lũ cát đỏ không gây thương vong về người những nhiều tài sản bị hư hỏng, giao thông qua khu vực Mũi Né, Hàm Tiến (TP Phan Thiết) bị gián đoạn.

Theo tin tức các năm qua thì lũ cát diễn ra khá thường xuyên tại khu vực Mũi Né, nhất là tại các dự án khai thác xây dựng các cơ sở hạ tầng nghỉ dưỡng, như 5/2020, 4/2021, 10/2023.

Cao nguyên Cát đỏ – một thực thể địa chất – địa mạo đới bờ kỳ vĩ, gây ấn tượng mạnh với mọi du khách mỗi khi đặt chân đến. Cao nguyên cát đỏ có nhiều geosite mang giá trị khoa học và giá trị bổ sung cao, cũng là một phân vị địa tầng phức tạp, là đối tượng nghiên cứu của các nhà địa chất trong và ngoài nước khoảng 100 năm qua. Tuy nhiên, nơi đây có tầng nước ngầm thấp, ít cây cối, có hiện tượng cát bay và hình thành các đụn cát mới chưa ổn định thì mang nhiều rủi ro khi xảy ra mưa với cường độ lớn sẽ xuất hiện các trận lũ cát. Lũ cát là hiện tượng tự nhiên. Tại vùng ven biển thuộc Bình Thuận, nhất là vùng cát đỏ (khu vực Mũi Né, Hòn Rơm và xã Tiến Thành), lũ cát là hiện tượng xảy ra hàng năm. Đặc biệt nếu xuất hiện mưa lớn kéo dài thì lũ cát càng dễ xảy ra và nguy hiểm hơn.

Tổng hợp từ vnexpress.net và baobinhthuan.com.vn